1- Đầu thế kỷ XX, sự kiện người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp năm 1918, đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu sự khởi đầu hoạt động đối ngoại của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc năm 1945, các hoạt động đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà cách mạng, yêu nước Việt Nam thực hiện đã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa cách mạng Việt Nam tiếp cận với tư tưởng cách mạng tiến bộ, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các đảng cộng sản lớn, như Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Pháp và các lực lượng tiến bộ. Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 80 năm qua, nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam ngày càng trưởng thành, đóng góp hiệu quả vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ, hình thành nên nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ (1945 - 1975), đối ngoại đã phát huy tích cực vai trò, kết nối Việt Nam và thế giới, thực sự trở thành một mặt trận chiến lược, một mũi giáp công, huy động được nguồn lực quốc tế to lớn phục vụ đất nước. Đối ngoại đã góp phần quan trọng vào công tác tham mưu chiến lược trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình quốc tế, khu vực, “biến nguy thành cơ”. Đảng ta đã nhận thức và nắm bắt được thời cơ chiến lược mà bối cảnh quốc tế mang lại(1), từ đó đề ra quyết sách đúng đắn, kịp thời, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên giành chính quyền, huy động sức mạnh của lực lượng tiến bộ thế giới. Với tinh thần thêm bạn bớt thù(2), “thống nhất bên trong, tìm bạn bên ngoài”(3), hoạt động ngoại giao đã giúp Việt Nam mở rộng kết nối, phá thế bị bao vây, cô lập. Sau tuyên bố sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam (ngày 14-1-1950) và các chuyến công du quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để mở rộng kết nối, phá thế bị bao vây, cô lập, Trung Quốc, Liên Xô và một loạt nước dân chủ nhân dân đã lần lượt công nhận, đặt quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam(4).
Việt Nam đã tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ quý báu của bạn bè yêu chuộng hòa bình, các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới; đưa dòng thác cách mạng Việt Nam hòa vào làn sóng cách mạng thế giới. Trên thế giới, đã hình thành một mặt trận nhân dân rộng khắp, trong đó có cả nhân dân Mỹ và đông đảo chính khách, học giả, nhân sĩ nổi tiếng thế giới, phản đối chiến tranh, đoàn kết, ủng hộ Việt Nam. Bạn bè quốc tế, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, đã dành cho Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn về tinh thần, vật chất, đào tạo cán bộ, giúp Việt Nam giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến. Việt Nam đã hình thành liên minh chiến đấu với Lào và Cam-pu-chia trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau, đẩy mạnh giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, Cam-pu-chia, tăng cường đoàn kết giúp đỡ giữa nhân dân ba nước.
Trong thời kỳ này, đối ngoại, ngoại giao đã phát triển lên một tầm vóc mới, phối hợp chặt chẽ với các bước tiến quân sự trên chiến trường trong quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đạt đến đỉnh cao nghệ thuật đánh - đàm trong đàm phán, ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973. Việt Nam đã xây dựng nền ngoại giao đặc sắc “tuy hai mà một, tuy một mà hai” giữa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; phát huy và phối hợp chặt chẽ các mối quan hệ của Đảng với các đảng cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa, các mối quan hệ về mặt nhà nước, hoạt động vận động nhân dân thế giới; thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ được xu thế hòa bình, trung lập và sự ủng hộ to lớn của bạn bè, nhân dân thế giới.
Đối ngoại, ngoại giao thời kỳ này đã đóng góp lớn cả về lý luận và thực tiễn, qua đó Đảng ta từng bước khái quát nên hệ thống quan điểm lý luận đối ngoại, bao gồm quan điểm về xu thế lớn trong sự vận động của thế giới, các lực lượng trên trường quốc tế, cách nhìn “đối tác”, “đối tượng”, lợi ích quốc gia - dân tộc, định vị Việt Nam, đoàn kết dân tộc - đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển và xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao với ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân. Quá trình triển khai đã để lại nhiều bài học quý báu cho nền ngoại giao Việt Nam: phải nhận thức, đánh giá chính xác về tình hình thế giới, thời cuộc, về tình hình, sức mạnh trong nước; kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước và cuộc đấu tranh của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế; phát huy và tranh thủ sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại, nhưng dựa vào sức mình là chính; vận dụng khéo léo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, lấy việc bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất của mọi hoạt động.
Trong thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1986), Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh, mở rộng quan hệ với các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, đấu tranh giữ vững an ninh biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, củng cố sự đoàn kết, gắn bó keo sơn, mối quan hệ đặc biệt với Lào và Cam-pu-chia, bảo vệ biên giới phía Bắc. Việt Nam kiên trì khôi phục quan hệ hữu nghị và láng giềng với Trung Quốc, đấu tranh chống cấm vận của chính quyền Mỹ, phát triển quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, không liên kết, có một số bước đi mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển và các tổ chức quốc tế. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam trở thành thành viên của một loạt tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế lớn, như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, năm 1956), Ngân hàng Thế giới (WB, năm 1956), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB, năm 1976), Phong trào Không liên kết (NAM, năm 1976), Liên hợp quốc (năm 1977), Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV, năm 1978).
Việt Nam đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể từ các nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với một số nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh, phát huy vai trò trên trường quốc tế. Việt Nam cũng thực hiện được mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biên giới quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng, làm thất bại âm mưu chống phá Đảng, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động. Việc triển khai quan hệ với các nước trong khu vực góp phần tạo nền tảng thuận lợi để thúc đẩy hoạt động đối ngoại giai đoạn sau, hướng tới xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong giai đoạn tái thiết đất nước sau năm 1975, từ cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới cho đến tích cực giải quyết vấn đề, vướng mắc với các nước láng giềng, cải thiện quan hệ với các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bước đi đầu tiên trong đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước phát triển phương Tây đã đặt nền móng để Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia có chế độ chính trị và kinh tế khác biệt, từng bước đạt được thành tựu đối ngoại đột phá, có tính lịch sử trong thời kỳ mới.
Thời kỳ đổi mới đất nước (năm 1986 đến nay) diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế biến động lớn. Tác động sâu rộng nhất, trực tiếp nhất, trực diện nhất đối với Việt Nam là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và một số nước Đông Âu, thế giới chuyển dần từ trật tự hai cực sang trật tự đa cực, đa trung tâm. Trong quan hệ quốc tế, hợp tác và cạnh tranh, đối tác và đối tượng ngày càng đan xen; tập hợp lực lượng ngày càng đa dạng. Thành tựu vượt bậc của cách mạng khoa học - kỹ thuật thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. Các nước coi trọng, ưu tiên phát triển kinh tế, gắn an ninh với phát triển. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, nổi lên là khu vực phát triển năng động, ngày càng quan trọng cả về kinh tế và chính trị - an ninh, nhưng còn hiện hữu nhiều nhân tố gây mất ổn định.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính giới thiệu với Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon về nhạc cụ truyền thống Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã hình thành và không ngừng hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được kết quả hết sức quan trọng, nổi bật.
Một là, tiếp tục góp phần phá thế bị cô lập, bao vây, cấm vận, tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả nước láng giềng, các nước lớn, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống(5).
Hai là, tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Từ một nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên kết kinh tế sâu rộng(6). Đối ngoại, ngoại giao đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành huy động nguồn lực quan trọng cho phát triển, như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA); đưa Việt Nam trở thành mắt xích trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Ngoại giao kinh tế ngày càng trở thành một ưu tiên trong chiến lược đối ngoại, tạo ra cơ hội lớn cho nền kinh tế, giúp thúc đẩy xuất khẩu, thu hút FDI và mở rộng thị trường tiêu thụ. Việc chủ động tham gia các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế lớn, như Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng góp phần tạo cơ hội để Việt Nam tham gia xây dựng quy tắc thương mại quốc tế công bằng, minh bạch.
Ba là, đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; cùng với quốc phòng, an ninh tăng cường bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, từ khi nước chưa nguy. Vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, giữ vững đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Việt Nam đã xử lý thỏa đáng vấn đề nảy sinh trên biển, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước; kiên trì giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, kiên trì chủ trương giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Bốn là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ Việt Nam đã xác lập vào thực chất; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và quốc tế, nhất là ASEAN và Liên hợp quốc. Đẩy mạnh và đưa vào chiều sâu hợp tác quốc phòng - an ninh; đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và lĩnh vực khác.
Năm là, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn, hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng(7); chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, tham gia giải quyết vấn đề chung của khu vực và thế giới. Đối ngoại, ngoại giao đa phương Việt Nam đã thể hiện bước trưởng thành mạnh mẽ, chứng minh Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam đã xây dựng hệ thống lý luận đối ngoại ngày càng toàn diện, đầy đủ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm lớn về đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phục vụ đắc lực cho việc củng cố cục diện đối ngoại. Hệ thống phương châm đối ngoại cũng được hoàn thiện để ngày càng đáp ứng với biến chuyển nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực và mục tiêu đối ngoại. Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết trường phái đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” với đặc tính “gốc chắc, thân vững, cành uyển chuyển”, là sự kết tinh của nền đối ngoại Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Kết quả công tác đối ngoại sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới một lần nữa khẳng định lại giá trị của nhiều bài học đối ngoại qua các thời kỳ trước cũng như mang lại nhiều bài học quý giá mới. Một là, bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với công tác đối ngoại; luôn đổi mới tư duy, chủ động nghiên cứu, dự báo sát, đúng tình hình, kịp thời ban hành quyết sách, chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp. Hai là, bài học về nhận diện và đón bắt thời cơ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ba là, bài học kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Nguyên tắc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tùy theo vấn đề, tùy từng thời điểm và tùy theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “thêm bạn bớt thù”, “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Bốn là, xử lý hài hòa các mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế, đối tác và đối tượng, hợp tác và cạnh tranh. Năm là, bài học về công tác đào tạo cán bộ, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại từ Trung ương đến địa phương.
2- Thực tiễn 80 năm qua là một căn cứ để phát triển quan điểm, tầm nhìn về đối ngoại, ngoại giao trong thời đại mới; là tiền đề để đưa nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam lớn mạnh cả về tầm vóc, hiệu lực, hiệu quả, góp phần tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giúp Việt Nam tích lũy đủ thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”(8). Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ rõ: “Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh”(9).
Thế giới đang bước vào một giai đoạn mới với chuyển động rất nhanh, mạnh, phức tạp. Trật tự “đa cực, đa trung tâm” nổi lên ngày càng rõ nét; các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược, kiềm chế lẫn nhau, đẩy mạnh liên kết, tập hợp lực lượng, quyết tâm giành vị thế và lợi ích… Xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, chiến tranh cục bộ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên diễn ra dưới hình thức mới, gay gắt hơn... Sự phân mảnh kinh tế và cạnh tranh - địa - chính trị ngày càng gia tăng, trong khi các vấn đề toàn cầu, như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và dịch bệnh đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ từ cộng đồng quốc tế. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tiến bộ vượt bậc trong công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (big data) đã mở ra tiềm năng phát triển vượt bậc cho các nước đi sau, các nước đang phát triển để tận dụng thành tựu phát triển của nhân loại, thông qua hội nhập, huy động và phân bổ hiệu quả hơn nguồn lực, tiếp nhận kiến thức, công nghệ và kinh nghiệm quốc tế, thực hiện “đi tắt, đón đầu”, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển nhanh và bền vững.
Để vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đối ngoại Việt Nam cần có sự hoàn thiện liên tục về nhận thức, đổi mới sáng tạo về tư duy, chủ động, khéo léo trong biện pháp để thực hiện tốt vai trò kiến tạo, định hình cục diện đối ngoại thuận lợi, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.
Thứ nhất, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đối ngoại, ngoại giao, phát huy sức mạnh của đối ngoại trên cả ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đây là một trong những bài học quan trọng nhất mà ngoại giao Việt Nam sớm rút ra và luôn quán triệt trong suốt 80 năm trưởng thành và phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thành tựu đối ngoại trong chặng đường vừa qua càng chứng minh sự đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta trong việc kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định lợi ích cao nhất cho đất nước, nhân dân. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nâng cao và thống nhất về nhận thức, hành động; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tăng cường hiệu quả công tác đối ngoại; xác định đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; đưa đối ngoại, ngoại giao lan tỏa vào từng mạch phát triển quan trọng của đất nước, đi sâu vào mọi mặt của đời sống chính trị đất nước. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và nhịp nhàng trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng vì mục tiêu chung là lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm tính tổng thể, gắn kết, tuân thủ mục tiêu, định hướng chung, đồng thời phù hợp với ưu tiên đối ngoại ở từng thời điểm và địa bàn cụ thể. Trong triển khai hoạt động đối ngoại, cần phát huy vai trò, tính đặc thù, phù hợp với đặc điểm, thế mạnh của mỗi trụ cột đối ngoại trên cơ sở nhận thức rõ đặc trưng của từng trụ cột, về lực lượng, không gian, công cụ cũng như cách thức triển khai, trong đó thế mạnh về truyền thống quan hệ lâu dài, gắn bó, thủy chung của đối ngoại đảng cần kết hợp chặt chẽ với khả năng hội nhập năng động, tích cực, toàn diện, tính hiệu lực, hiệu quả cao của ngoại giao nhà nước và sức lan tỏa, thuyết phục dựa trên sức mạnh chính nghĩa của đối ngoại nhân dân.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện tư duy và tăng cường sự phối hợp giữa ngoại giao với an ninh, phát triển. Với nền tảng là những thành tựu vĩ đại của 80 năm lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực tiễn gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam có thể tự tin về khả năng bảo đảm an ninh đối ngoại của đất nước. Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam cần phát triển toàn diện hơn tư duy biện chứng về an ninh và phát triển, trong đó đối ngoại góp phần bảo đảm vững chắc môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, đồng thời phát triển cần được xem là mục tiêu ưu tiên và cũng là điều kiện, tiền đề bảo đảm an ninh cho đất nước. Về tổng thể, đối ngoại cần phối hợp chặt chẽ với quốc phòng - an ninh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giải quyết vấn đề trên biển theo luật pháp quốc tế, duy trì môi trường hòa bình ở khu vực; đồng thời, tăng cường quan hệ với các nước để tạo thế đan xen lợi ích chiến lược, góp phần củng cố quốc phòng - an ninh. Trong quan hệ với các nước lớn và nhóm nước lớn, Việt Nam cần đặc biệt coi trọng, vừa bảo đảm độc lập, tự chủ, thực hiện ưu tiên của chính sách đối ngoại, vừa xử lý khôn khéo, thúc đẩy hài hòa các mối quan hệ, hóa giải “từ sớm, từ xa” tác động bất lợi, đồng thời tranh thủ khai thác tiềm lực kinh tế, tạo đột phá trong quan hệ kinh tế. Trong quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam cần tiếp tục củng cố phên giậu an ninh và phát triển liền kề thông qua các mối quan hệ song phương và trong khuôn khổ ASEAN, đồng thời đóng góp tích cực và phát huy vai trò trong ASEAN, nhất là trong vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế và phát triển để tăng cường hội nhập toàn diện và sâu rộng trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN cũng như giữa ASEAN với mạng lưới đối tác bên ngoài.
Thứ ba, tiếp tục thúc đẩy ngoại giao kinh tế. Trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tiếp tục khai thác tối đa lợi ích của hiệp định thương mại tự do, đầu tư hiện có, nhất là thị trường, lĩnh vực chưa được khai thác; khai mở nguồn đầu tư, tài chính mới, thị trường mới, nhất là nguồn lực từ các khu vực, như Trung Đông, Mỹ La-tinh hay doanh nghiệp, quỹ đầu tư lớn; giải quyết dự án lớn tồn đọng, từ đó tạo đòn bẩy thu hút dự án mới; tiếp tục rà soát, đôn đốc triển khai cam kết, thỏa thuận quốc tế, cụ thể hóa khuôn khổ quan hệ vừa được nâng cấp với đối tác thành chương trình, dự án hợp tác kinh tế thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, tiếp tục nhận diện, tranh thủ cơ hội từ xu hướng kinh tế mới đang định hình, như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; tạo lập hợp tác sâu rộng với trung tâm đổi mới sáng tạo của thế giới trong lĩnh vực mang tính đột phá, như công nghệ cao, bán dẫn, AI, lượng tử để góp sức thúc đẩy động lực tăng trưởng mới, đột phá vào lĩnh vực mới, tạo đà cho bước phát triển đột phá của đất nước.
Kiểm tra tấm wafer - nguyên liệu để sản xuất sản phẩm cho chất bán dẫn tại Công ty TNHH Hana Micron Vina (100% vốn đầu tư của Hàn Quốc) ở khu công nghiệp Vân Trung (tỉnh Bắc Giang).
Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại, ngoại giao trên tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ, y tế, môi trường, góp phần vào tăng trưởng bền vững, duy trì sự phát triển lành mạnh, ổn định, góp sức để ứng phó với các thách thức toàn cầu mới, như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tài nguyên, an ninh môi trường, an ninh mạng. Việt Nam có nhiều điều kiện mới thuận lợi để phát huy mạnh mẽ ngoại giao văn hóa trên cơ sở xây dựng nội lực văn hóa, phát triển một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam văn minh, giàu truyền thống, nâng “sức mạnh mềm” quốc gia lên một tầm cao mới. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, khơi dậy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, khát vọng phát triển, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế để duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại ngang tầm nhiệm vụ. Cán bộ đối ngoại là đại diện của dân tộc, của Đảng, Nhà nước, văn hóa, khí phách và cốt cách con người Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam cần chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư vào công tác đào tạo và đào tạo lại, xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, ở trong nước phải là chuyên gia, là “từ điển” đối với lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách, khi ra nước ngoài phải là chuyên gia về Việt Nam; đồng thời, bảo đảm cơ chế, chính sách phù hợp để cán bộ yên tâm cống hiến, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại thực sự tinh nhuệ, có năng lực cao, đáp ứng tốt yêu cầu của thời đại mới.
Trải qua 80 năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng với thành tựu đáng tự hào, đối ngoại Việt Nam luôn giữ vững vai trò quan trọng trong việc tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khi ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới, đối ngoại càng khẳng định vai trò chiến lược, trở thành mặt trận tiến công mũi nhọn, giúp Việt Nam nâng cao vị thế, mở rộng hợp tác quốc tế, làm tiền đề để củng cố sức mạnh tổng hợp quốc gia. Với ba trụ cột chính là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của Việt Nam ngày càng phát huy sức mạnh tổng hợp, tiếp tục đóng góp quan trọng giúp đất nước tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, vững tin bước vào một tương lai phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng, đi lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu ./.
---------------------
(1) Đơn cử như, thời cơ “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (năm 1945); sự phát triển vũ bão của ba dòng thác cách mạng trong những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, bao gồm hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu; phong trào giải phóng dân tộc; phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội trong lòng các nước tư bản.
(2) Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), tháng 8-1945.
(3) Thông cáo về chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 3-10-1945).
(4) Trung Quốc (ngày 18-1-1950), Liên Xô (ngày 30-1-1950), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (ngày 31-1-1950), Tiệp Khắc (ngày 2-2-1950), Hung-ga-ri (ngày 3-2-1950), Bun-ga-ri (ngày 8-2-1950), Ru-ma-ni (ngày 3-2-1950), Ba Lan (ngày 4-2-1950), An-ba-ni (ngày 11-2-1950), Mông Cổ (ngày 17-11-1954).
(5) Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 nước, trong đó 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 10 nước đối tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), WTO. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 259 chính đảng ở 119 quốc gia và khu vực, trong đó có 92 đảng cộng sản, công nhân, hơn 100 đảng cầm quyền, tham chính. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia, tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, tổ chức nhân dân của Việt Nam triển khai quan hệ thiết thực với khoảng 1.200 tổ chức nhân dân và tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
(6) Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương; ký kết, thực thi 16 FTA, trong đó có 3 FTA thế hệ mới tiêu chuẩn cao, đang đàm phán 3 FTA; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2024 đạt mức kỷ lục với 786 tỷ USD; thu hút được hơn 440 tỷ USD nguồn vốn FDI
(7) Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO); đăng cai Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN; cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi.
(8) Xem: “Toàn văn phát biểu chính sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Đại học Columbia, Hoa Kỳ”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 24-9-2024, https://baochinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-chinh-sach-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-dai-hoc-columbia-hoa-ky-10224092411013163.htm
(9) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050, tháng 11-2024, tr. 3 - 11
Tác giả bài viết: BTG
Nguồn tin: Tạp chí Cộng sản
Ý kiến bạn đọc