Tổng Bí thư Tô Lâm với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hưng Yên.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, nhấn mạnh yếu tố căn cốt của công tác này là phát triển tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Người chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng… Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”(1), “Chọn lọc đảng viên mới cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Chi bộ cần thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng những phần tử hăng hái, nâng cao trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn đảng viên”(2); “Việc phát triển Đảng, phải chọn lọc hết sức cẩn thận. Phát triển đến đâu, phải củng cố đến đấy”(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện. Vì vậy, Đảng cần phải làm cho thành phần đảng viên trong sạch, phải bồi dưỡng và hấp thụ vào Đảng những người tốt trong giai cấp lao động...”(4). Để Đảng có thể hoàn thành nhiệm vụ trước dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng phải chú ý phát triển lực lượng cách mạng trong nhân dân như Công hội, Nông hội, tăng cường mối liên minh công nông cũng như phải đề ra chính sách cụ thể phù hợp với mỗi thời kỳ để tập hợp và lãnh đạo đông đảo quần chúng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết dân tộc, tập hợp hết thảy các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Nhân dân ta rất yêu mến Đảng ta. Phải khuyến khích nhân dân góp phần xây dựng Đảng như góp ý kiến với chi bộ trong việc tuyển chọn người vào Đảng, tuyển chọn cán bộ lãnh đạo. Làm được như thế, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân sẽ càng thêm mật thiết. Người yêu cầu: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mệnh nhất. Nó sẽ gồm những người kiên quyết phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự lao động, những người chí công vô tư, làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến kiến quốc”(5).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra các quan điểm cốt lõi, như về xây dựng tổ chức, về phát triển đội ngũ đảng viên.
Về xây dựng tổ chức, phải củng cố tốt chi bộ và chi đoàn, phát triển Đảng và Đoàn. Cán bộ, đảng viên và đoàn viên phải đoàn kết chặt chẽ; phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích chung của nhân dân lên trên lợi ích riêng của mình; phải làm gương mẫu trong đoàn kết dân tộc, trong học tập và trong lao động, sản xuất; phải chống quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô(6). Muốn xây dựng Đảng tốt, thì phải có đảng bộ tốt, chi bộ tốt. Muốn có đảng bộ tốt, chi bộ tốt phải có đảng viên tốt.
Về phát triển đội ngũ đảng viên, phải “chú ý kết nạp những phần tử ưu tú, gương mẫu, trước hết là trong xã viên hợp tác xã, trong Đoàn Thanh niên Lao động vào Đảng. Khi kết nạp phải lựa chọn rất cẩn thận, tránh làm ồ ạt. Đồng thời phải tăng cường giáo dục cho các đảng viên, mới cũng như cũ. Đi đôi với việc phát triển, phải củng cố chi bộ xã vững mạnh”(7), “Phải chăm lo bồi dưỡng và phát triển những công nhân có đủ tiêu chuẩn vào Đảng và Đoàn”(8), “chú ý kết nạp thêm đảng viên các dân tộc và nữ đảng viên để mở rộng hàng ngũ Đảng”(9). Đảng ủy các cấp ở miền núi cần ra sức phát triển đảng viên và đoàn viên phụ nữ, cần đào tạo và giúp đỡ cán bộ phụ nữ các dân tộc. Trong quá trình thực hiện, cần quán triệt các vấn đề sau:
Một là, việc lựa chọn, bồi dưỡng và kết nạp đảng viên “phải chọn lọc rất cẩn thận, phải xem trọng chất lượng quyết không nên làm một cách ồ ạt, không nên tham nhiều”(10), dựa trên 6 tiêu chuẩn: “1- Suốt đời kiên quyết phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản./ 2- Rèn luyện tư tưởng vô sản, sửa chữa tư tưởng sai lầm. Kiên quyết đứng hẳn trên lập trường giai cấp công nhân, không đứng chân trong chân ngoài./ 3- Đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng./ 4- Tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật của Đảng./5- Liên hệ chặt chẽ với quần chúng./ 6- Luôn luôn cố gắng học tập; thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí mình”(11) .
Hai là, “Người vào Đảng phải thừa nhận Đảng cương và Đảng chương. Phải tham gia công tác trong một tổ chức của Đảng. Phải tuyệt đối phục tùng nghị quyết của Đảng. Phải nộp đảng phí”(12). Cố gắng học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nâng cao trình độ giác ngộ. Giữ gìn kỷ luật của Đảng. Ra sức phụng sự nhân dân. Giữ vững kỷ luật của Chính phủ và của các đoàn thể cách mạng, thông thạo công việc mình phụ trách; làm gương mẫu trong mọi công việc cách mạng(13) .
Ba là, để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật. “Tổ chức gốc rễ của Đảng là chi bộ. Chi bộ do chi ủy lãnh đạo; các đảng viên chịu sự lãnh đạo của chi ủy… Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống nhất lại theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung”(14):
(i) Tập trung trên nền tảng dân chủ. Những phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính; mà là xây dựng trên nền tảng dân chủ. Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử lên. Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng đều do quần chúng đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó cho, chứ không phải tự ai tranh giành được.
(ii) Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. Mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng. Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng Trung ương(15).
Bốn là, để tổ chức cơ sở đảng mạnh, đảng viên phải luôn luôn ghi nhớ sáu tiêu chuẩn của người đảng viên: “- Đảng viên phải kiên quyết và suốt đời đấu tranh cho Đảng./ - Luôn luôn bồi dưỡng tư tưởng vô sản của mình, không để mắc sai lầm, tích cực sửa chữa sai lầm, khuyết điểm./ - Luôn luôn để lợi ích của Đảng lên trên lợi ích của cá nhân. Khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân không khớp nhau thì đảng viên phải để lợi ích của Đảng lên trước./ - Tuyệt đối chấp hành nghị quyết, kỷ luật của Đảng./ - Mật thiết liên hệ với quần chúng./ - Cố gắng học tập về mọi mặt để không ngừng nâng cao trình độ của mình, thật thà tự phê bình và phê bình. Đảng viên cần liên hệ mật thiết với quần chúng, nêu cao tinh thần chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, gương mẫu trong mọi công tác, trong đời sống”(16).
Gần 8 năm làm Bí thư Chi bộ bản Háng Blaha, xã Khao Mang, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái), Vàng A Hồng (đứng giữa) giúp trên 40 hộ dân trong bản thoát nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ trên 90% xuống còn khoảng 40%.
Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng
Ngay từ thời kỳ vận động thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặc biệt coi trọng việc gây dựng cơ sở cách mạng, tuyên truyền, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ hạt giống đỏ của cách mạng Việt Nam. Năm 1924, từ Mát-xcơ-va (Liên Xô) về Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã nhanh chóng định hướng tổ chức Tâm tâm xã(17) theo con đường cách mạng vô sản, thành lập Việt Nam thanh niên cộng sản đoàn. Trên cơ sở đó, thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tập hợp, rèn luyện các thanh niên yêu nước, chuẩn bị về tổ chức và đội ngũ cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Đảng ta ra đời(18), dẫn dắt, tập hợp, lãnh đạo đông đảo giai tầng, quần chúng nhân dân yêu nước đấu tranh cách mạng. Ngay từ Đại hội lần thứ I của Đảng (năm 1935), Đảng ta đã nhấn mạnh ba nhiệm vụ: “Củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ lực lượng và phát triển các tổ chức quần chúng, chống chiến tranh đế quốc”(19). Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm, tư duy, phương pháp xây dựng tổ chức của Đảng ngày càng sáng tỏ và rất coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về chính trị, tư tưởng, đạo đức, xứng đáng với trọng trách được nhân dân giao phó.
Trải qua tiến trình lịch sử cách mạng dân tộc vô cùng hào hùng, vĩ đại, vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng ta không ngừng phát triển về quy mô, tổ chức và đội ngũ đảng viên. Từ 600 đảng viên năm 1935, đến năm 1945, thời điểm chúng ta tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, chỉ với 5 nghìn đảng viên trên 20 triệu dân, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm nên thành công rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Tiếp tục củng cố và phát triển tổ chức đảng, Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ vững chắc thành quả của Cách mạng Tháng Tám qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc (1945 - 1975), thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ngày càng khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đến nay, Đảng ta có 52.323 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 5,4 triệu đảng viên, chiếm tỷ lệ trên dân số cả nước là 5,4% (bình quân 100 người dân có khoảng 6 đảng viên). Trên 80% đảng viên có trình độ trung học phổ thông; khoảng 55% đảng viên có trình độ đại học và trên 60% đảng viên có trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên(20).
Công tác quản lý, rà soát, sàng lọc, đánh giá, xếp loại chất lượng, kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ được thực hiện nền nếp. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được đẩy mạnh. Tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được củng cố, kiện toàn, bổ sung chức năng, nhiệm vụ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở được quan tâm. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình; chất lượng sinh hoạt chi bộ; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức được quan tâm và ngày càng chất lượng. Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, chất lượng đội ngũ đảng viên chuyển biến tích cực, mặt bằng trình độ ngày càng cao, bảo đảm tiêu chuẩn, yêu cầu đối với đảng viên, nhất là về phẩm chất đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm, ý thức rèn luyện, bản lĩnh chính trị, lối sống, quan hệ với nhân dân... Kết quả trên góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết, khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, giải quyết vấn đề phát sinh ở cơ sở. Chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ, công tác tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại còn hạn chế; phương thức lãnh đạo chậm đổi mới; thực hiện chưa nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị; giảm sút ý chí phấn đấu; suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhận thức về Đảng, động cơ phấn đấu vào Đảng của một số đảng viên chưa trong sáng. Một số cấp ủy cơ sở chưa nêu cao trách nhiệm, tính gương mẫu; chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm; giảm sút sức chiến đấu, chưa thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong nhân dân(21).
Nguyên nhân của tình trạng này là do nhận thức của một số cấp ủy, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, về vai trò, vị trí, yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên chưa sâu sắc, toàn diện. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; còn tình trạng buông lỏng công tác giáo dục tư tưởng chính trị, chưa nắm chắc diễn biến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên. Công tác phát triển đảng viên ở một số nơi còn hạn chế, nặng về số lượng, chưa thực sự quan tâm, đi sâu giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức cách mạng và rèn luyện, thử thách đối với quần chúng phấn đấu vào Đảng.
Bối cảnh tình hình thế giới có cả thuận lợi, thời cơ, cũng như khó khăn và thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ đã và đang tác động nhiều mặt đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của các quốc gia trên toàn thế giới.
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Dự báo đến năm 2045, đất nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, tính tự chủ của nền kinh tế được cải thiện. Việt Nam sẽ là nước phát triển, thu nhập cao, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Dù vậy, “Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn”(22). Vấn đề cạnh tranh nước lớn; nguy cơ tụt hậu; sự đấu tranh về ý thức hệ, tư tưởng trong bối cảnh thăng trầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực; sự chống phá của các thế lực thù địch... gia tăng thách thức giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy hại nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức như Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(23).
Lễ kết nạp đảng viên mới cho 10 chiến sĩ Mùa hè xanh được tổ chức tại Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ thượng tướng quận công Trần Văn Năng (xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp).
Tình hình trên đòi hỏi tăng cường xây dựng Đảng thực sự hiệu quả, chất lượng, uy tín về tổ chức và đội ngũ; bảo đảm điều kiện, nguồn lực vững chắc, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước tiếp tục đạt bước tiến quan trọng, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(24). Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”(25). Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” nhấn mạnh, phải tạo cho được sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất hơn nữa trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng của đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện từ gốc, từ cơ sở, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Trên tinh thần đó, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, về nhận thức, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc rằng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Đội ngũ đảng viên có vai trò trực tiếp và là nhân tố cơ bản quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của cấp ủy, đảng viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đảng viên, nhất là người đứng đầu theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết, kết luận, quy định của Trung ương về xây dựng Đảng(26), nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm Đảng vững mạnh về mọi mặt trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Thứ hai, về tổ chức đảng, tiếp tục củng cố, kiện toàn mô hình tổ chức cơ sở đảng gắn với sắp xếp, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức cơ sở đảng đặc thù, mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”, phát triển tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, khu đô thị mới, mô hình tổ chức cơ sở đảng ngoài nước phù hợp.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, xác định rõ yêu cầu và giải pháp đổi mới; nâng cao chất lượng sinh hoạt của đảng bộ, chi bộ; bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cấp ủy viên; nâng cao năng lực cụ thể hóa nghị quyết của cấp trên phù hợp với thực tiễn, giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh. Bảo đảm phương châm: i- Kết hợp xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh với củng cố, chấn chỉnh cơ sở đảng yếu kém; ii- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; iii- Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, khắc phục tình trạng hình thức trong đánh giá, xếp loại hằng năm. Thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết nội bộ.
Thứ ba, về đội ngũ đảng viên, đề cao rèn luyện, phấn đấu, nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tiên phong, gương mẫu, giữ vững nguyên tắc và lời thề của đảng viên; xác định rõ bổn phận, trách nhiệm thiêng liêng, cao cả khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đề cao tinh thần “tự soi”, “tự sửa”, danh dự, lòng tự trọng của đảng viên.
Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục đạo đức cách mạng; đề cao tính tự giác nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ động nắm tình hình diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước vấn đề mới phát sinh; nâng cao trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Quản lý chặt chẽ đảng viên, đảng viên đi công tác nước ngoài và đảng viên giữ mối liên hệ với địa phương nơi cư trú.
Thứ tư, về công tác phát triển đảng, với phương châm “ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên”, phải thật sự coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, đẩy mạnh công tác tạo nguồn và nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên, tạo môi trường thuận lợi để quần chúng phấn đấu, rèn luyện, giác ngộ lý tưởng, có động cơ, mục đích trong sáng vào Đảng. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng đoàn viên, hội viên ưu tú, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức, trưởng thành trong lao động, sản xuất, kinh doanh, học tập, trong lực lượng vũ trang; phát triển đảng viên khu vực ngoài nhà nước, trong công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, khu vực miền núi, biên giới, hải đảo.
Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng và đảng viên mới, bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả, theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu.
Thứ năm, về công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên không chấp hành nghiêm quy định của Đảng; bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, vai trò tiên phong, gương mẫu trong sinh hoạt đảng; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Chú trọng phát hiện, nhân rộng, biểu dương tấm gương đảng viên tiêu biểu; thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, giám sát tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu. Tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và rèn luyện đảng viên. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, lựa chọn nhân tố tích cực trong đoàn viên, hội viên, quần chúng để giới thiệu cho tổ chức đảng xem xét, bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng ./.
...............................................
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 288, 289
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 524
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 281
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 54
(6) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 96
(7), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 350, 128, 231, 355
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 355
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 282
(13) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 284 - 285
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 286
(15) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 286 - 287
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 749
(17) Một tổ chức nhỏ gồm những thanh niên Việt Nam yêu nước cấp tiến, tách ra từ tổ chức Việt Nam Quang phục hội do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo.
(18) Ngày 3-2-1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt.
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 574
(20) Theo Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương tại Hội nghị giao ban công tác tổ chức xây dựng Đảng khu vực miền Trung - Tây Nguyên năm 2023.
(21) Nhiệm kỳ 2016 - 2020, có 664 tổ chức cơ sở đảng bị thi hành kỷ luật (khiển trách 503 tổ chức; cảnh cáo 161 tổ chức), tăng 114 tổ chức so với nhiệm kỳ 2010 - 2015, trung bình mỗi năm thi hành kỷ luật hơn 100 tổ chức (khoảng 0,2%). Nhiệm kỳ 2021 - 2026, tập trung kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm về trách nhiệm nêu gương, vi phạm những điều đảng viên không được làm và liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Riêng năm 2021, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 223 tổ chức đảng (khiển trách 159 tổ chức; cảnh cáo 64 tổ chức) (Theo tài liệu chuyên đề tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, ngày 22-7-2023, “Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”).
(22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 228
(23) Xem: “Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 8-10-2021, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xiii/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-be-mac-hoi-nghi-lan-thu-tu-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-3759
(24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112
(25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 229 – 230
(26) Như Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 29-10-2016, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”, gắn với Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”,...
Tác giả bài viết: BTG
Nguồn tin: Tạp chí Cộng sản
Ý kiến bạn đọc