Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: Hàng đầu, từ trái sáng phải: Cụ Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cụ Huỳnh Thúc Kháng. (Ảnh tư liệu).
Một cuộc đời tiêu biểu của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX
Cụ Nguyễn Văn Tố sinh ngày 05/6/1889 tại phố Hàng Đường, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, cụ sớm tiếp xúc với nền học vấn phương Tây, tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông – Tây và từ đó hình thành nên một phong cách học thuật nghiêm túc, sâu sắc, nhân văn.
Ngay từ thuở thiếu thời, cụ đã nổi tiếng là người thông minh, ham học. Sau khi học xong tại Trường Thông ngôn, cụ làm việc tại Trường Viễn Đông Bác cổ (École française d’Extrême-Orient) – nơi quy tụ nhiều học giả tên tuổi của Pháp và Việt Nam. Nhờ vốn hiểu biết uyên thâm và tư duy độc lập, cụ dần khẳng định vị trí của mình trong giới học giả Đông Dương.
Cụ thông thạo chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Là học giả tiên phong trong việc biên khảo, dịch thuật và truyền bá tri thức khoa học – lịch sử – văn hóa Việt Nam, cụ để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trải dài từ khảo cổ, dân tộc học, văn học cổ, sử học đến ngôn ngữ học.
Với bút danh Ứng Hoè, cụ Nguyễn Văn Tố không chỉ là nhà nghiên cứu mà còn là người tích cực truyền bá tri thức đến đông đảo quần chúng. Là Chủ nhiệm đầu tiên của Hội Trí tri – tổ chức tiền thân của Hội Khai Trí Tiến Đức, cụ đã tổ chức nhiều buổi diễn thuyết, giảng dạy miễn phí về văn hóa, lịch sử, khoa học nhằm nâng cao dân trí.
Cụ đặc biệt quan tâm đến giáo dục và chữ Quốc ngữ, coi đây là phương tiện quan trọng để đưa dân tộc thoát khỏi bóng tối của ngu dốt và nô lệ. Với vai trò là Tổng lý Hội Truyền bá Quốc ngữ từ năm 1938, cụ đã vận động được đông đảo trí thức trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, phổ cập chữ Quốc ngữ cho hàng vạn người lao động nghèo, mở ra một phong trào học chữ rộng khắp trước Cách mạng Tháng Tám.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cụ Nguyễn Văn Tố tham gia Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội. Dù tuổi cao, sức yếu, cụ vẫn xông pha công tác tại nhiều địa phương, mang tinh thần "cứu dân như cứu hỏa".
Năm 1946, cụ được bầu làm Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội khóa I của Thủ đô Hà Nội. Trong hoàn cảnh đất nước bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm, cụ tích cực vận động nhân dân ủng hộ chính quyền cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai, cụ từ chối di tản theo chính quyền kháng chiến mà tình nguyện ở lại Hà Nội để bảo vệ và tổ chức lực lượng. Tháng 10 năm 1947, khi quân Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai, chúng bắt cụ và sát hại một cách dã man tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Sự hy sinh của cụ đã trở thành biểu tượng cao đẹp của lòng yêu nước, của trí thức dấn thân vì dân tộc.
Chân dung cụ Nguyễn Văn Tố (Nguồn ảnh: Internet).
Dù đã hơn 75 năm kể từ ngày cụ Nguyễn Văn Tố về với cõi vĩnh hằng, nhưng những cống hiến to lớn của cụ vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc. Những tác phẩm khảo cứu của cụ như “Việt Nam sử lược”, “Lịch sử An Nam thời độc lập”, các bản dịch Truyện Kiều, truyện Nôm cổ, các bài viết về phong tục, tín ngưỡng dân gian… là kho tàng quý báu trong kho sử học – văn hóa nước nhà.
Không chỉ dừng lại ở tri thức, cụ Nguyễn Văn Tố là hiện thân của một mẫu người trí thức gắn bó máu thịt với nhân dân, sống thanh liêm, cống hiến, phụng sự Tổ quốc đến giây phút cuối cùng. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần nhắc đến cụ Tố với lòng trân trọng đặc biệt, coi cụ là tấm gương sáng cho thế hệ cách mạng.
Ngày nay, tên tuổi của cụ Nguyễn Văn Tố được đặt cho nhiều trường học, đường phố, công trình văn hóa trên khắp cả nước. Năm 2005, Chủ tịch nước truy tặng cụ Huân chương Hồ Chí Minh – phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho những người có công lớn với sự nghiệp cách mạng.
Kỷ niệm 136 năm Ngày sinh cụ Nguyễn Văn Tố là dịp để các thế hệ hôm nay ôn lại và học tập tinh thần khai sáng, đạo đức trí thức và lòng yêu nước thương dân cao cả của cụ. Trong bối cảnh đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mới với yêu cầu “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”, di sản của cụ Tố càng trở nên thời sự và có giá trị định hướng sâu sắc.
Ngành giáo dục, giới trí thức, đội ngũ cán bộ, công chức và đặc biệt là thanh niên – sinh viên hôm nay cần noi gương cụ Tố, hun đúc khát vọng cống hiến, làm giàu trí tuệ, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển văn hóa, con người và xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Tác giả bài viết: Minh Triết
Ý kiến bạn đọc